PHÒNG KHÁM ĐÔNG Y HOÀNG SINH ĐƯỜNG, 0946 816 371, PHÒNG KHÁM YHCT BIÊN HÒA, PHÒNG KHÁM YHCT ĐỒNG NAI, PHÒNG KHÁM ĐÔNG Y BIÊN HÒA, PHÒNG KHÁM ĐÔNG Y ĐỒNG NAI, HOÀNG SINH ĐƯỜNG

PHÒNG KHÁM ĐÔNG Y HOÀNG SINH ĐƯỜNG, 0946 816 371, PHÒNG KHÁM YHCT BIÊN HÒA, PHÒNG KHÁM YHCT ĐỒNG NAI, PHÒNG KHÁM ĐÔNG Y BIÊN HÒA, PHÒNG KHÁM ĐÔNG Y ĐỒNG NAI,PHÒNG KHÁM YHCT,

PHÒNG KHÁM YHCT ĐỒNG NAI, PHÒNG KHÁM ĐÔNG Y BIÊN HÒA,

Chuyên trị các bệnh lý cơ xương khớp thần kinh
105(13/34) KP5, P. Trảng Dài, TP. Biên Hòa, T. Đồng Nai
THIÊN 34 : NGŨ LOẠN

THIÊN 34 : NGŨ LOẠN

 

Hoàng đế nội kinh

Hoàng đế nội kinh

Hoàng Đế hỏi : "Kinh mạch có 12, phân biệt bằng ngũ hành, phân chia thành tứ thời, vậy nó bị thất như thế nào để thành loạn ? Nó đắc như thế nào để được trị ?"[1].

Kỳ Bá đáp : "Ngũ hành biến theo thứ tự của nó, bốn mùa thay đổi theo sự phân biệt rõ ràng, khi nào con người sống thuận với ngũ hành và tứ thời thì trị, sống nghịch là loạn"[2].

Hoàng Đế hỏi : "Thế nào gọi là sống tương thuận ?"[3].

Kỳ Bá đáp : "Con người có 12 kinh mạch là để ứng với 12 nguyệt, 12 nguyệt phân làm tứ thời, tứ thời gồm xuân thu, đông hạ[4]. Khí của chúng khác nhau, khí doanh vệ lại sống nương theo với tứ thời, nếu Âm Dương được hòa, khí thanh và trọc không can phạm vào nhau, như vậy ắt sẽ thuận mà thành trị"[5].

Hoàng Đế hỏi : "Thế nào gọi là nghịch và loạn ?"[6].

Kỳ Bá đáp : "Khi mà thanh khí ở tại Âm, còn trọc khí ở tại Dương, doanh khí thuận với mạch còn vệ khí lại nghịch hành, khí thanh và trọc cùng can phạm vào nhau, loạn sẽ xảy ra ở giữa ngực, đó gọi là đại muộn ( bứt rứt lớn)[7]. Cho nên nếu khí loạn ở Tâm thì Tâm sẽ bị phiền, thích yên lặng, cúi đầu núp tránh nơi yên tĩnh[8]. Nếu khí loạn ở Phế sẽ bị hơi suyễn đến cúi ngửa, phải dùng tay ấn lên để thở[9]. Nếu loạn ở Trường Vị sẽ thành chứng hoắc loạn[10]. Nếu loạn ở cẳng tay và cẳng chân thì sẽ bị chứng tứ chi quyết lãnh[11]. Nếu loạn ở đầu thì sẽ thành chứng quyết nghịch, đầu nặng, mắt hoa, té xuống"[12].

Hoàng Đế hỏi : "Đối với chứng ngũ loạn, ta có phép châm không ?"[13].

Kỳ Bá đáp : "Nó có con đường đến mà cũng có con đường ra đi, nếu ta biết thẩm sát được con đường đi và đến ấy để châm, đó đáng được gọi là phép báu để giữ thân"[14].

Hoàng Đế hỏi : "Đúng thay ! Ta mong được nghe về cái đạo ( con đường ấy)"[15].

Kỳ Bá đáp : "Nếu khí ở tại Tâm, ta thủ huyệt Du của kinh thủ Thiếu âm và thủ Tâm chủ[16]. Nếu khí ở tại Phế, ta thủ huyệt Huỳnh của kinh thủ Thái âm, huyệt Du kinh túc Thiếu âm[16]. Nếu khí ở tại Trường Vị, ta thủ huyệt ở kinh túc Thái âm, Dương minh; nếu châm mà tà khí vẫn không xuống, ta thủ huyệt Tam Lý[17]. Nếu khí ở tại đầu, ta thủ huyệt Thiên Trụ và Đại Trữ; nếu không ứng, ta lại thủ huyệt Huỳnh và Du của kinh túc Thái dương[18]. Nếu khí ở tại tay và chân thì trước hết nên châm xuất huyết ở các huyết lạc, sau đó thủ huyệt Huỳnh và Du của kinh (thủ túc) Dương minh và Thiếu dương"[19].

Hoàng Đế hỏi : "Việc bổ tả phải thế nào ?"[20].

Kỳ Bá đáp : "Châm vào chậm, rút ra chậm, gọi là dẫn dắt khí, việc bổ tả vốn vô hình cho nên tất cả đều nhằm bảo vệ cho được cái tinh khí, chứ không phải các trường hợp châm trị đối với hữu dư và bất túc khác, mà chỉ cần dẫn dắt khí đang nghịch nhau (trở lại hòa hoãn nhau) mà thôi"[21].

Hoàng Đế nói : "Xứng đáng thay cho cái Đạo (y) ! Rõ ràng thay cho những lời lập luận (của y), Ta mong nội dung trên được ghi vào Ngọc bản gọi tên là Trị Loạn"[22].

Chia sẻ:
Bài viết khác:
Đặt lịch khám
Đặt lịch khám
Hotline: 0946816371
Zalo
Zalo
Liên hệ ngay
1
Bạn cần hỗ trợ?
Go Top